Dấu hiệu của ung thư vú

Ung thư vú đã vượt qua ung thư cổ tử cung, trở thành loại ung thư hàng đầu ở nữ giới. Phần lớn u xảy ra ở phụ nữ độ tuổi 35-45, hiếm khi xảy ra dưới tuổi 30.

Sau nhiều nghiên cứu, các nhà khoa học đã tìm ra các nguyên nhân chủ yếu làm tăng nguy cơ mắc bệnh này là: tiền sử gia đình bị ung thư vú; có vài xáo trộn của tuyến vú; sự đột biến của một số gene; chịu tác động lâu dài của oestrogen (phụ nữ có kinh trước 12 tuổi và mãn kinh sau 55 tuổi); dùng thuốc nội tiết trong thời gian dài; không sinh con hoặc có con đầu lòng sau 30 tuổi; không cho con bú mẹ; hút thuốc lá và uống rượu; ăn nhiều thịt, chất béo; cơ địa béo phì.

Đa phần ung thư vú được chính người bệnh phát hiện, khi họ nhận thấy một sự thay đổi ở tuyến vú. Thường gặp nhất là một khối bướu hay một chỗ dày cứng lên không đau ở vú.

Ở giai đoạn sớm, bệnh thường không có các biểu hiện rõ rệt và không gây đau đớn cho người bệnh. Khi khối u tiến triển, người bệnh sẽ thấy có các triệu chứng sau: khối u cứng, không đau, không đồng nhất, bờ không rõ, dính vào thành ngực hoặc da trên vú, khó di động; vú to ra hoặc có thay đổi hình dáng của vú, núm vú bị lún hoặc xù xì, chảy máu; da vùng vú dày lên hoặc thay đổi màu sắc, sần sùi như vỏ quả cam...

Khi thấy có bất cứ dấu hiệu nào kể trên, chị em nên đến ngay chuyên khoa ung bướu để khám. Càng phát hiện sớm bao nhiêu thì khả năng chữa trị càng hiệu quả bấy nhiêu. Đối với các bệnh nhân có khối u vùng vú bị nghi ngờ ung thư, bác sĩ thăm khám toàn bộ để đánh giá cục u là lành tính hay ác tính và cho thực hiện các xét nghiệm để phân biệt khối u đó là dạng khối lỏng hay khối đặc (lành hoặc ác), sinh thiết để có đánh giá chính xác nhất.

Khi đã xác định khối u đó là ác tính, thầy thuốc sẽ tiến hành các xét nghiệm đặc biệt để biết bản chất của ung thư, biết ung thư còn tại chỗ hay đã xâm lấn sang các mô lân cận. Khoảng 95% các trường hợp ung thư vú đều là dạng xâm lấn.

Căn cứ theo mức độ phát triển và xâm lấn của khối u, người ta chia thành 3 nhóm để áp dụng phương pháp điều trị phù hợp: Nhóm 1: khối u dưới 2cm, không thấy hạch nách và không có di căn xa; nhóm 2: khối u lớn hơn 2cm, có hoặc không có hạch nách, chưa có di căn xa; nhóm 3: ung thư ăn lan tại chỗ rất nhiều hoặc các ung thư có di căn xa.

Với tiến bộ của y học, việc điều trị bệnh cho kết quả khả quan: Tỷ lệ khỏi bệnh 5 năm như sau: nhóm một khoảng 80-90%, nhóm hai khoảng 40-75%, nhóm ba khoảng 15%. Tuy nhiên, muốn kết quả điều trị tốt, sau đợt điều trị, người bệnh cần phải đi khám định kỳ 2 - 3 lần mỗi năm để thầy thuốc nắm được diễn tiến của bệnh, nếu có di chứng và biến chứng sẽ kịp thời xử trí.

Chị em cũng nên tự khám vú để phát hiện sớm bệnh theo cách sau:

- Đứng trước gương, ở trần, cánh tay buông xuôi hai bên hông, rồi đổi tư thế: hai tay để phía sau mông, nghiêng nhẹ người tới trước. Quan sát cả hai vú xem có thay đổi gì về kích thước (một bên lớn hơn thường lệ, hoặc teo nhỏ lại), da vú (da cam, da lõm xuống). Ấn nhẹ núm vú xem có máu hoặc chất dịch tươm ra ở đầu vú không.

- Nằm ngửa, kê gối hoặc khăn xếp lại dưới vai bên phải, tay phải để sau gáy, dùng các ngón tay trái (bàn tay xòe thẳng), nhẹ nhàng ép sát tuyến vú vào thành sườn, bắt đầu từ phần trên, rồi đến phần dưới vú, cuối cùng là núm vú, nhằm tìm một cục u (khối u, khối bướu). Khi khám vú trái thì đổi ngược tư thế.

- Khám vùng nách để tìm hạch.

Nên khám khi đã sạch kinh, vú ít căng, phải dùng bàn tay xòe với các ngón tay thẳng đè tuyến vú áp vào thành sườn, lần lượt rà khắp cả tuyến vú, nếu thấy có cục cộm rõ thì mới đúng là cục u.

(Theo Sức khỏe và Đời sống)

Share this

Related Posts

Previous
Next Post »