Những ngọn tháp cô độc

“…Champa, Phù Nam, Thủy Chân Lạp… những cái tên khiến chúng ta nghĩ rằng, mỗi vết xe ngựa nam tiến năm xưa của Đại Việt là khảm vào thời gian hôm nay những cái nhìn ngoảnh lại đầy khắc khoải!”

(Lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên)

Tháp Pô-Kloong-Gia-Rai
Tháp Pô-Kloong-Gia-Rai

Tôi không ấn tượng nhiều với Mỹ Sơn. Bởi trước khi đến đó, tôi đã từng đi qua nhiều ngọn tháp trên một quãng dài cả không gian và thời gian. Với tôi, sự “quần cư” của di tích Mỹ Sơn không gợi cảm xúc bằng những ngọn tháp cô độc.

Sáu tuổi, ở căn phòng nhỏ của bố tôi trong khu tập thể tôi hay nhìn ra phía cụm tháp Pô Kloong nổi lên trên đỉnh đồi Trầu. Một đồi hoa xương rồng tím ngát trên sườn núi đá. Ngọn tháp bảy trăm năm qua vẫn trân mình cùng gió Phan Rang. Nơi thờ vị Chiêm vương có công dẫn thuỷ nhập điền cho xứ Phan Rang khô cằn, mỗi năm chỉ nhộn nhịp một ngày vào đầu mùa tết Ka Tê, để rồi lại đắm chìm trong hơn 360 ngày cô độc.

Mười cây số cách tháp Pô Kloong về phía Tây nam là cụm tháp Pô Rô Mê. Quen với sử sách “con vua thì lại làm vua” trong sử Tàu, sử Việt. Quen với hình ảnh những ông vua soán ngôi đoạt quyền hoặc nổi lên từ khởi nghĩa nông dân vào buổi suy vong của những triều đại trước, tôi đặc biệt ấn tượng với ông vua này. Xuất thân từ một người chăn dê, chàng mục đồng đã bước vào hoàng tộc sau cuộc tình “ăn cơm trước kẻng” vói nàng công chúa và đĩnh đạc, hào sảng lên ngôi. Một cuộc tình bất xứng về danh vị được thừa nhận và vun đắp, chàng chăn dê không có quyền cao chức trọng, không vàng muôn bạc vạn. Chàng chỉ có tấm lòng và niềm tin nơi trái tim mình.

Phía Bắc Phan Rang là cụm tháp Hoà Lai. Người Phan Rang gọi là vùng Ba Tháp. Nó không giống những ngôi tháp khác, lai kiến trúc Khmer, dấu ấn một thời vua Miên dẫn quân xâm chiếm Chiêm Thành. Hoang phế và đổ nát cho đến gần đây nó được làm mới, đẹp hơn nhưng hồn cũ không còn.

Có những ngày lang bạt cùng bè bạn. Túi chỉ dăm đồng lẻ đủ mua rượu, tôi và Vương Huy cuốc bộ lên lầu ông Hoàng, Phan Thiết. Khu biệt thự ngày xưa giờ là phế tích, cạnh đó là tháp Pô Sha Nư với những bầy dơi chao chác trong bóng chiều chạng vạng. Huy lẩm nhẩm : Pô Sha Nư buổi chiều gạch rụng/ lầu ông Hoàng hiu hắt bóng nhà thơ. Ngoài hai mươi, ai đó bừng cháy khát khao, còn Vương Huy chỉ mong ký thác cuộc đời: Ai quang gánh Phú Long chiều vãn chợ/ có gánh dùm mớ tuổi của tôi?. Nhìn bóng Huy liêu xiêu bên bóng tháp, tôi chợt nghĩ ngọn tháp kia với đứa bạn thơ của mình, nỗi cô đơn của ai lớn hơn?

Một buồi chiều nhiều gió, một mình một xe máy ngược đường 19 về Tây Sơn, bóng tháp Dương Long đã níu chân tôi. Chợt nhớ những ngọn tháp Chàm đã lùi dần vào Nam. Chiêm quốc xưa nhỏ dần, lùi dần cho đến ngày tiêu vong. Từ Mỹ Sơn, Dương Long, Pô Rô Mê, Pô Sha Nư…Nền văn mình Chiêm thành bị dồn đuổi. Không biết các vị vua Chăm xưa nghĩ gì. Hay như Pô Rô Mê, lại ngọn sáo lưng trâu, hào sảng đời du mục để tìm quên?

Nền văn minh và niềm kiêu hãnh đã rêu phong

Sự cô đơn của những ngọn tháp ẩn chứa ít nhiều kiêu hãnh. Cùng thời đại, ở Việt Nam đố tìm thấy những công trình tầm cỡ như thế. Bảy trăm năm phơi cùng sương gió, Tháp Pô K’ Loong là bằng chứng hùng hồn về một nền văn minh của một vương quốc rộng lớn trước khi nó trở thành … một dân tộc thiểu số ngày hôm nay.

Đâu rồi một thời vó ngựa Chế Bồng Nga khiến vua Việt phải dâng con gái đổi đất cầu hoà? Đâu rồi một thuở nền âm nhạc Chăm áp đặt giai điệu của mình lên dân Việt để nay âm hưởng của nó còn tồn tại trong nhã nhạc cung đình Huế?

Xa lắm rồi!

Trong các làng Chăm Phan Rang không có cây cổ thụ, những thầy Chang, thầy Xế Bà La Môn nói chặt cây để không còn chỗ cho ma quỷ ở. Nhưng ông hàng xóm Sử Văn Ngọc của tôi ở làng Bàu Trúc, một người sưu tầm văn hoá Chăm, có lần bảo rằng đó là cách dùng tín ngưỡng để che ý đồ quân sự. Làng Chăm ở trên những ngọn đồi cao, dưới chân đồi có suối nước sinh hoạt, làng chặt sạch cây để từ xa họ có thể nhìn rõ bóng quân thù. Tâm trạng của nhiều thế hệ bị truy kích đã tạo nên tập quán ấy…

Những lin-ga rực lửa ái ân không đủ duy trì sự hưng thịnh của dân tộc

Một nền văn minh cũ không còn. Ngày nay chẳng ai còn nghe những câu dân ca Chăm về những vị vua xưa. Còn chăng là những lời ca về tình yêu lứa đôi, về cánh đồng, về những mùa trăng thôn dã. Giai điệu thì vẫn còn thở than và oán trách, nhưng ca từ thì tuyệt nhiên không.

Ôi, một dân tộc mà ngay cả lời thở than cũng là ẩn dụ! Sự cô đơn của những ngọn tháp, dù sao cũng nói được nhiều hơn những lời ca kia…. Một nền văn minh bị che khuất hoặc cố tình che mình như chiếc khăn choàng của những cô gái Chăm Hồi giáo, có nhan sắc mà không dám tự hào.

Những linga rừng rực lửa ái ân không đủ duy trì sự hưng thịnh của một nền văn minh đang tàn lụi…

Hàng ngàn tấm ảnh tháp Chàm, nhiều ảnh đã được trao giải, nhiều nhà nhiếp ảnh đã thành danh nhờ chụp nó. Nhưng tôi không thích một tấm nào. Bởi cả người chụp và người chấm ảnh hình như không muốn nói lên điều mà những ngọn tháp kia và thời gian muốn nói: Sự cô đơn, lòng kiêu hãnh, sự rêu phong của một nền văn minh và thân phận một dân tộc…

Saigon 22-5-2007
NGUYỄN ĐỨC HIỂN

Sưu tầm