2. Type "command.com" , and then press Enter. (A DOS window opens.)
3. Type the following:
"cd\"
"cd \windows"
Press Enter after typing each one.
4. Type copy "regedit.exe regedit.com" and then press Enter.
5. Type "start regedit.com" and then press Enter.
6. Navigate to and select the key:
HKEY_CLASSES_ROOT\exefile\shell\open\command
7. In the right pane, double-click the (Default) value.
8. Delete the current value data, and then type:
"%1" %*
Tip: Type the characters: quote-percent-one-quote-space-percent-asterisk.
9. Close Regedit utility.
Note: If you are using Windows XP and you enable "System Restore" , you need to disable "System Restore" in "Safe Mode" before using the instructions above.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, con đường ta đi không phải lúc nào cũng trải hoa hồng. Vậy khi vấp ngã, khi gặp khó khăn chúng ta sẽ giải quyết vấn đề như thế nào?
Mời mọi người đọc câu chuyện dưới đây. Đây là một câu chuyện về bài học mà một người cha dạy cô con gái cách vượt qua những khó khăn cuộc đời đem đến, những khó khăn đã khiến cô gái muộn phiền và nhiều lần toan nghĩ đến việc chối bỏ cuộc sống này.
Cha cô vốn là một đầu bếp. Một lần, nghe con gái than thở, ông dẫn cô xuống bếp. Ông bắc ba nồi nước lên lò và để lửa thật to. Khi ba nồi nước sôi, ông lần lượt cho cà rốt, trứng và hạt cà phê vào từng nồi riêng rồi đun để chúng tiếp tục sôi mà không nói một lời. Người con gái sốt ruột không biết cha định làm gì. Lòng cô đầy phiền muộn trong khi ông lại thản nhiên nấu. Nửa giờ sau người cha tắt bếp, lần lượt múc cà rốt, trứng và cà phê vào từng bát khác nhau. Ông bảo con gái dùng thử cà rốt. “Mềm lắm cha ạ”, cô gái đáp. Sau đó, ông lại bảo cô bóc trứng và nhấp thử cà phê. Cô gái cau mày vì cà phê đậm và đắng.
- Điều này nghĩa là gì vậy cha? – cô gái hỏi. - Ba loại thức uống này đều gặp phải một nghịch cảnh như nhau, đó là nước sôi 100 độ. Tuy nhiên mỗi thứ lại phản ứng thật khác.
Cà rốt khi chưa chế biến thì cứng và trông rắn chắc, nhưng sau khi luộc sôi, chúng trở nên rất mềm. Còn trứng lúc chưa luộc rất dễ vỡ, chỉ có một lớp vỏ mỏng bên ngoài bảo vệ chất lỏng bên trong. Sau khi qua nước sôi, chất lỏng bên trong trở nên đặc và chắc hơn. Hạt cà phê thì thật kỳ lạ. Sau khi sôi, nước của chúng trở nên rất đậm đà. Người cha quay sang hỏi cô gái: “Còn con? Con sẽ phản ứng như loại nào khi gặp phải nghịch cảnh.
Con sẽ như cà rốt, bề ngoài tưởng rất cứng cáp nhưng chỉ với một chút đau đớn, bất hạnh đã trở nên yếu đuối chẳng còn chút nghị lực? Con sẽ là quả trứng, khởi đầu với trái tim mỏng manh và tinh thần dễ đổi thay. Nhưng sau một lần tan vỡ, ly hôn hay mất việc sẽ chín chắn và cứng cáp hơn. Hay con sẽ giống hạt cà phê? Loại hạt này không thể có hương vị thơm ngon nhất nếu không sôi ở 100 độ. Khi nước nóng nhất thì cà phê mới ngon.
Cuộc đời này cũng vậy con ạ. Khi sự việc tưởng như tồi tệ nhất thì chính lúc ấy lại giúp con mạnh mẽ hơn cả. Con sẽ đối mặt với những thử thách của cuộc đời như thế nào? Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?”
File cấu hình server SSH được đặt trong thư mục /etc/ssh/sshd_conf. Bạn cần khởi động lại dịch vụ SSH sau mỗi lần thay đổi để các thay đổi đó được thực thi.
Thay đổi cổng SSH
Mặc định, SSH tuân theo các kết nối đến trên cổng 22. Kẻ tấn công thường sử dụng phần mềm quét cổng xem liệu các host (máy trạm) có sử dụng dịch vụ SSH không. Thay đổi cổng SSH lên cao hơn 1024 là một lựa chọn khôn ngoan, vì hầu hết mọi chương trình quét cổng (gồm cả nmap) mặc định đều rà soát được các cổng cao.
Mở file /etc/ssh/sshd_config và tìm dòng có ghi:
Port 22
Thay đổi số cổng và khởi động lại dịch vụ SSH:
/etc/init.d/ssh restart
Chỉ cho phép sử dụng giao thức SSH 2
Có hai loại giao thức SSH. Nếu chỉ dùng giao thức SSH 2 thì sẽ an toàn hơn nhiều vì SSH 1 thường gặp phải vấn đề bảo mật với kiểu tấn công man-in-the-middle và insertion. Mở file /etc/ssh/sshd_config và tìm dòng sau:
Protocol 2,1
Thay đổi dòng thành protocol 2.
Chỉ cho phép một số đối tượng người dùng đăng nhập qua SSH
Bạn không nên cho phép người dùng root đăng nhập qua SSH, vì điều này gây nên mối đe doạ bảo mật lớn mà không cần thiết. Nếu một kẻ tấn công nào đó thu được đặc quyền root khi đăng nhập vào máy, khả năng phá hoại có thể gấp mấy lần người dùng thông thường. Bạn nên cấu hình server SSH không cho phép người dùng root đăng nhập. Đầu tiên, tìm dòng ghi:
PermitRootLogin yes
Thay đổi yes thành no và khởi động lại dịch vụ. Sau đó bạn có thể đăng nhập lại hệ thống với bất kỳ vai trò người dùng xác định nào đó và chuyển sang người dùng root nếu muốn trở thành siêu người dùng.
Sẽ khôn ngoan hơn khi tạo một user cục bộ giả hoàn toàn không có đặc quyền gì trên hệ thống và dùng tên user đó để đăng nhập SSH. Sử dụng cách thức này sẽ giúp máy tính không bị hại dù tài khoản người dùng có bị xâm phạm. Khi tạo người dùng này, hãy chắc chắn nó phải nằm trong nhóm wheel để bạn có thể chuyển sang nhóm superuser (siêu người dùng) nếu cần.
Nếu muốn tạo danh sách một số đối tượng người dùng được phép đăng nhập vào SSH, bạn có thể mô tả chúng trong file sshd_config. Ví dụ, nếu muốn cho phép người dùng anze, dasa, kimy đăng nhập qua SSH, ở cuối file sshd_config, thêm vào một dòng như sau:
AllowUsers anze dasa kimy
Tạo banner SSH tuỳ biến
Nếu muốn mời một người dùng kết nối tới dịch vụ SSH để xem một thư nào đó, bạn có thể tạo banner SSH tuỳ biến. Thực hiện đơn giản bằng cách tạo một file text (trong ví dụ là file etc/ssh-banner.txt) và đặt bất kỳ kiểu thư text nào bạn có vào trong đó. Ví dụ:
***************************************************************** *This is a private SSH service. You are not supposed to be here.* *Please leave immediately. * *****************************************************************
Khi muốn chỉnh sửa hoặc ghi file, trong sshd_conf, tìm dòng ghi:
#Banner /etc/issue.net
Không cần bình luận về dòng trên mà hãy thay đổi đường dẫn tới file text banner SSH tuỳ biến của bạn.
Sử dụng cơ chế thẩm định khoá công cộng DSA
Thay vì sử dụng tên và mật khẩu khi đăng nhập vào SSH, bạn có thể dùng cơ chế thẩm định khoá công cộng DSA. Chú ý rằng bạn có thể sử dụng username, password và khoá DSA cùng một lúc. Sử dụng cơ chế thẩm định khoá công cộng DSA cho phép hệ thống ngăn chặn được kiểu tấn công theo sách vở, vì bạn có thể đăng nhập vào dịch vụ SSH mà không cần dùng đến tên và mật khẩu. Thay vào đó, bạn cần một cặp khoá DSA: một khoá chung (public) và một khoá riêng (private). Khoá riêng được giữ trên máy của bạn, còn khoá chung được đưa lên server. Khi muốn đăng nhập vào một phiên SSH, server sẽ kiểm tra khoá. Nếu tất cả thông số đều khớp, bạn được đưa vào hệ thống. Nếu khoá không khớp, kết nối bị ngắt.
Ở ví dụ dưới đây, máy riêng sẽ kết nối tới máy chủ được đặt tên là station1 và máy chủ là server1. Trên cả hai máy đều có cùng một thư mục chủ (home folder). Chú ý là kết nối sẽ không hoạt động nếu thư mục chủ trên client và server khác nhau. Đầu tiên, tạo một cặp khoá trên máy riêng với lệnh ~$ ssh-keygen -t dsa. Bạn sẽ được nhắc cụm mật khẩu cho khoá riêng, nhưng hãy để trống, chúng ta chưa quan tâm đến phương thức này vội. Một cặp khoá được tạo: khoá riêng nằm trong ~/.ssh/id_dsa và khoá chung được đặt tại .ssh/id_dsa.pub.
Tiếp theo, copy nội dung ~/.ssh/id_dsa.pub to server1 vào file ~/.ssh/authorized_keys. Nội dung trong ~/.ssh/id_dsa.pub có dạng:
Nếu file ~/.ssh/authorized_keys đã tồn tại, gắn thêm nội dung trong ~/.ssh/id_dsa.pub vào file ~/.ssh/authorized_keys trên server1. Bạn chỉ cần thực hiện một việc là thiết lập chính xác đặc quyền trong file ~/.ssh/authorized_keys trên server1:
~$ chmod 600 ~/.ssh/authorized_keys
Bây giờ cấu hình file sshd_conf để sử dụng cơ chế thẩm định khoá DSA. Hãy chắc chắn rằng bạn có ba dòng không chú thích sau:
Khởi động lại dịch vụ. Nếu mọi thứ đã được cấu hình chính xác, bạn đã có thể sử dụng SSH cho server và đặt trực tiếp nó vào thư mục chủ mà không cần bất kỳ tương tác nào khác.
Nếu muốn chỉ sử dụng duy nhất một cơ chế thẩm định DSA, không cần chú thích hay thay đổi dòng PasswordAuthentication trong file sshd_config từ yes thành no:
PasswordAuthentication no
Nếu ai đó cố gắng kết nối tới dịch vụ SSH mà không có khoá chung trên server, anh ta sẽ bị từ chối và thậm chí không được đưa nền đăng nhập ra với thông báo lỗi:
Permission denied (publickey).
Sử dụng các hàm bao TCP để cho phép chỉ một số host được kết nối
Phương thức trên sẽ rất hữu ích nều bạn muốn giới hạn số host trên mạng có thể kết nối tới dịch vụ SSH. Nhưng nó không thể sử dụng hoặc kết hợp được với cấu hình các bảng IP (iptable). Thay vào đó, bạn có thể dùng các hàm bao TCP, cụ thể là sshd TCP. Bạn có thể đưa ra quy tắc chỉ cho phép một số host nhất định trên mạng con cục bộ (local subnet) 192.168.1.0/24 và host từ xa 193.180.177.13 kết nối tới dịch vụ SSH.
Các hàm bao TCP mặc định đầu tiên sẽ xem trong file /etc/hosts.deny danh sách các host bị từ chối kết nối tới dịch vụ. Tiếp theo là file /etc/hosts để xem liệu có quy tắc nào cho phép một số host kết nối tới một dịch vụ đặc biệt nào đó không. Ví dụ, tôi sẽ tạo một quy tắc như vậy trong tư mục /etc/hosts.deny:
sshd: ALL
Quy tắc trên có nghĩa là, mặc định tất cả các host đều bị cấm truy cập dịch vụ SSH. Điều này là cần thiết, vì nếu không tất cả các host ở đây đều có quyền truy cập dịch vụ SSH. Do hàm bao TCP đầu tiên sẽ xem xét trong file hosts.deny, nếu không có quy tắc nào liên quan đến ngăn chặn sử dụng dịch vụ SSH, bất kỳ host nào cũng có thể đến nôi đến nó. Tiếp theo, tạo một quy tắc trong /etc/hosts để cho phép chỉ một số host cụ thể (như được định nghĩa ở trên) sử dụng dịch vụ SSH:
sshd: 192.168.1 193.180.177.13
Bây giờ, chỉ có các host trên mạng 192.168.1.0/24 và host 193.180.177.13 mới có quyền truy cập dịch vụ SSH. Tất cả host khác đều bị ngắt kết nối trước khi được đăng nhập và nhận một thông báo lỗi như sau:
ssh_exchange_identification: Connection closed by remote host
Sử dụng iptables để giới hạn số lượng host được kết nối
Một lựa chọn khác ngoài các hàm bao TCP là giới hạn truy cập SSH với iptables (các bảng địa chỉ IP). Song, bạn có thể sử dụng kết hợp cả hai phương thức này cùng một lúc. Dưới đây là một ví dụ đơn giản về cách cho phép một số host nhất định kết nối tới SSH:
~# iptables -A INPUT -p tcp -m state --state NEW --source 193.180.177.13 --dport 22 -j ACCEPT
Và để chắc chắn rằng không có host nào khác được truy cập dịch vụ SSH:
~# iptables -A INPUT -p tcp --dport 22 -j DROP
Ghi lại một số quy tắc mới và hoàn chỉnh công việc.
Một số mẹo thời gian SSH
Bạn có thể dùng các tham số iptables khác để giới hạn kết nối tới dịch vụ SSH trong một khoảng thời gian nhất định. Kiểu thời gian có thể là giây, phút, giờ, hoặc ngày (/second, /minute, /hour, /day ), như ví dụ dưới đây.
Ở ví dụ đầu, nếu người dùng nhập mật khẩu sai, truy cập vào dịch vụ SSH sẽ bị khoá trong một phút. Và sau đó người dùng chỉ được phép gõ thông tin đăng nhập vào sau từng phút:
~# iptables -A INPUT -p tcp -m state --syn --state NEW --dport 22 -m limit --limit 1/minute --limit-burst 1 -j ACCEPT ~# iptables -A INPUT -p tcp -m state --syn --state NEW --dport 22 -j DROP
Trong ví dụ thứ hai, iptables được thiết lập chỉ cho phép host 193.180.177.13 kết nối tới dịch vụ SSH. Sau ba lần đăng nhập thất bại, iptables chỉ cho phép host đăng nhập lại sau từng phút:
~# iptables -A INPUT -p tcp -s 193.180.177.13 -m state --syn --state NEW --dport 22 -m limit --limit 1/minute --limit-burst 1 -j ACCEPT ~# iptables -A INPUT -p tcp -s 193.180.177.13 -m state --syn --state NEW --dport 22 -j DROP
Kết luận
Các thành phần này không khó cầu hình, nhưng chúng là những kỹ thuật rất mạnh trong chế độ bảo mật dịch vụ SSH. Bỏ ra chút thời gian đầu tư, bạn sẽ có được giấc ngủ ngon .
Công cụ ifconfig (được lấy từ hai chữ interface configurator) tuy cung cấp ít chức năng nhưng là các chức năng rất quan trọng. Nó cho phép bạn có thể bật, tắt adapter mạng, gán địa chỉ IP và các thông tin netmask chi tiết. Đây là một số lệnh điển hình nhất:
Xem cấu hình hiện hành của các giao diện mạng, gồm có cả tên giao diện:
ifconfig
Bật hoặc tắt một adapter:
ifconfig
Gán một địa chỉ IP cho một adapter
ifconfig
Gán địa chỉ IP thứ hai cho một adapter:
ifconfig
Ví dụ: ifconfig eth0:0 192.168.1.101
ethtool quản lý các thiết lập ethernet card
Ethtool cho phép bạn xem và thay đổi nhiều thiết lập khác nhau cho các adapter ethernet (adapter không có card Wi-Fi). Bạn có thể quản lý nhiều thiết lập nâng cao khác, gồm có tx/rx, kiểm tra tổng và các thiết lập wake-on-LAN. Mặc dù vậy, đây là một số lệnh cơ bản hơn mà bạn cần phải quan tâm:
Hiển thị các thông tin driver cho một adapter mạng nào đó, rất quan trọng cho việc kiểm tra khả năng tương thích của phần mềm:
ethtool -i
Khởi tạo hành động adapter, thường là nhấp nháy các đèn LED trên adapter, để giúp bạn có thể nhận ra giữa các adapter và tên giao diện:
ethtool -p
Hiển thị thống kê mạng:
ethtool -S
Thiết lập tốc độ kết nối của adapter theo Mbps:
ethtool speed <10|100|1000>
iwconfig cho cấu hình không dây
Công cụ iwconfig cũng giống như ifconfig và ethtool cho card không dây. Bạn có thể xem và thiết lập các chi tiết cho mạng Wi-Fi, chẳng hạn như SSID, kênh và sự mã hóa. Cũng có nhiều thiết lập nâng cao khác bạn có thể xem và thay đổi, gồm có nhận độ nhạy, /CTS, fragmentation và các entry. Đây là một số lệnh mà bạn cần phải thử:
Hiển thị các thiết lập không dây cho giao diện, gồm có tên giao diện mà bạn cần cho các lệnh khác:
iwconfig
Thiết lập ESSID (Extended Service Set Identifier) hoặc tên mạng:
iwconfig essid
Ví dụ: iwconfig "my network"
Ví dụ: iwconfig any
Thiết lập kênh không dây của radio (1-11):
iwconfig
Đầu vào khóa mã hóa WEP (WPA/WPA2 vẫn chưa được hỗ trợ):
iwconfig eth0 key
Chỉ cho phép adapter kết nối đến một AP có địa chỉ MAC được chỉ định:
iwconfig ap
Ví dụ: iwconfig eth0 ap 00:60:1D:01:23:45
Thiết lập năng lượng truyền tải radio, nếu được hỗ trợ bởi card không dây, mặc định trong định dạng dBm hoặc mW khi được chỉ định:
iwconfig txpower
Ví dụ: iwconfig eth0 txpower 15
Ví dụ: iwconfig eth0 txpower 30mW
tcpdump cho việc “đánh hơi” các gói mạng
Đây không phải là một công cụ đơn giản mà nó còn là một bộ đánh hơi hay phân tích mạng. Công cụ này có thể capture các gói dữ liệu được truyền tải qua giao diện và trên mạng. Bạn có thể thanh tra các gói dữ liệu thô và xem lại các thống kê. Công cụ thường được sử dụng bởi các chương trình GUI khác, tuy nhiên cũng có thể rất hữu dụng trong một terminal. Đây là một số tùy chọn lệnh mà bạn có thể thực hiện với nó:
* -i: Chỉ định giao diện để capture, chẳng hạn như eth0 hoặc ath0. * -n: Ngừng việc thay thế các địa chỉ IP bằng hostname. * -nn: Ngừng việc phân giải hostname hoặc tên cổng. * -s : Số byte tối đa được hiển thị cho mỗi gói. Mặc định là 68. Sử dụng 0 để hiển thị toàn bộ các gói. * v, -vv, và -vvv: Các thông tin chi tiết được in cùng với các gói, chẳng hạn như các tùy chọn và chiều dài tổng thể trong một gói IP, các gói SMB được giải mã và các chi tiết telnet. * -x: Hiển thị nội dung gói theo định dạng HEX * -X: In nội dung các gói dữ liệu dưới định dạng ASCII
Ping, phát hiện mạng của bạn
Công cụ Ping giống như những gì Microsoft cung cấp trong Windows. Mặc dù vậy, các kiểu tùy chọn và tên có thể khác nhau. Trong Linux, mặc định sẽ ping liên tục.
Thực hiện ping một địa chỉ IP hoặc một host/domain name:
ping
Để stop hành động ping, nhấn Ctrl + C.
Đây là một số tùy chọn bạn có thể sử dụng thêm:
* -c: Đến hoặc đánh số gói để gửi đi * -i: Đợi một khoảng thời gian; số giây nào đó giữa các gói * -s: Kích thước gói của các ping; mặc định là 56 (64 với ICMP) * -w: Đợi theo dây hoặc số lượng giây để thực hiện ping
Netstat cho việc xem lại thống kê mạng
Công cụ Netstat (hoặc thống kê mạng) có thể hiển thị các thông tin chi tiết về các kết nối mạng, thống kê giao diện, bảng định tuyến, các kết nối giả mạo. Đây là một số lệnh bạn cần quan tâm: Xem danh sách các khe đang mở:
netstat
Hiển thị một bảng chứa tất cả các giao diện mạng:
netstat -i
Hiển thị thống kê tổng kết cho mỗi giao thức:
netstat -s
Hostname cho phép bạn xem và thay đổi hostname của mình
Nếu là một quản trị viên, bạn sẽ biết được hostname là gì. Với những người còn lại: một hostname sẽ giúp họ nhận ra các thiết bị mạng theo cách thân thiện người dùng thay vì chỉ là một địa chỉ IP toàn con số. Phân phối Linux thường có một công cụ đơn giản mang tên hostname để xem và thay đổi tạm thời hostname của bạn.
Xem thiết lập hostname hiện hành:
hostname
Thay đổi tạm thời một hostname (cho tới khi khởi động lại):
hostname
Để thay đổi vĩnh viễn hostname, bạn cần phải thực hiện edit các file /etc/hostname or /etc/sysconfig/network.
"Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường mùa vui nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn. "
Một điệu Valse nhẹ nhàng, êm ái thật thích hợp khi trời đất đang bẽn lẽn khoác lên mình chiếc áo rực rỡ của mùa Xuân. Cách đây 31 năm, trong căn gác cũ kĩ phố Yết Kiêu, nhạc sĩ Văn Cao lướt những ngón tay khô gầy trên những phím dương cầm vàng ố màu thời gian để cho ra đời tuyệt phẩm “Mùa xuân đầu tiên”. Cái cách mà Văn Cao cảm nhận mùa xuân thanh bình đầu tiên của đất nước có vẻ trầm lắng, không phải ông không vui, rất vui là đằng khác, song ông lại tận hưởng cảm giác đó bằng tâm hồn nghệ sĩ riêng của mình.
Ca sĩ Thanh Thúy
Mùa xuân dặt dìu theo con én lượn về, mênh mang, mơ màng. Tưởng chừng như xuân của Văn Cao thật đơn giản với tiếng gà gáy xa xa khi những giọt nắng trưa vàng cùng những sợi khói bềnh bồng len nhè nhẹ qua vòm cây, kẽ lá song lại có sức biểu cảm, lay động lòng người. Mới đây thôi, bao người đón Xuân bên tiếng nổ ì đùng khét lẹt mùi thuốc súng, đã lâu rồi người ta mới cảm thấy mùa xuân bình thường, thanh thản và nhẹ nhõm.
“Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về Người mẹ nhìn đàn con nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh Niềm vui phút giây như đang long lanh.
Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên. Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.”
Người người hớn hở trước cảnh mùa xuân tươi mới song Văn Cao lại thoáng chút xao xuyến nhìn những người mẹ đón con về sau cuộc chiến, nước mắt đã rơi, đã thấm trong giây phút trùng phùng thiêng liêng nhưng Văn Cao hoàn toàn tin tưởng vào một cuộc đời êm ấm trong tầm tay những người con trở về.
Người ta thường nói Văn Cao là nhạc sỹ cổ điển bởi những giai điệu mượt mà, sang trọng của ông, không hẳn là như thế. Trong những bản nhạc của mình, bằng giác quan của người nghệ sỹ, Văn Cao tinh tế chuyển tải đến chúng ta những tiên đoán một cách chân thành tuyệt đối, mà ở bài nhạc này là những giá trị nhân văn cần đạt được sau mùa xuân đại thắng. Ta không nên say trong chiến thắng mà quên đi mọi thứ còn phía trước. “Mùa xuân đầu tiên” không chỉ là mùa xuân của hoan ca mà còn là mùa xuân của sự bừng tỉnh nhận ra tính nhân bản bị đánh mất trong chiến tranh cần phải được đánh thức trong mỗi con người. Bằng phẩm chất của người nghệ sĩ cách mạng, Văn Cao đã nói rất thật:
“Từ đây người biết quê người Từ đây người biết thương người Từ đây người biết yêu người.” “Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường, mùa vui nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông…”
Và ở cuối bài ca, Văn Cao vẫn “mênh mông” lắm, song ông khẳng định lại lần nữa mùa xuân hôm nay là “mùa xuân mơ ước”, “xưa có về đâu”.
Mùa xuân mới đang dần tới, sắc xuân rực rỡ trên những phố phường, cây cỏ giang cành lá quấn quít với gió xuân, lòng ta tràn ngập niềm vui sướng trong sự thanh bình, chợt lặng nghe những lời ca chân thành của người nhạc sỹ đa tài luôn tin vào những giá trị chân thật của con người. Trong âm nhạc, Văn Cao là người tự do và hạnh phúc.
Chuẩn Internet cho e-mail là Simple Mail Transport Protocol (SMTP). SMTP là nghi thức cấp ứng dụng (application-level) dùng để điều khiển các dịch vụ thông điệp thông qua các mạng TCP/IP. SMTP được nói rõ trong RFC 321 và 822. SMTP sử dụng cổng TCP 25.
Bên cạnh SMTP, hai nghi thức khác dùng để phân phát mail đến client là POP3 và IMAP4.
MIME và SMTP MIME (Multipurpose Internet Mail Extensions) bổ sung thêm cho SMTP để cho phép gắn kèm các thông điệp đa phương tiện (không phải là văn bản) bên trong thông điệp SMTP chuẩn. MIME sử dụng mã hóa Base64 để chuyển các file phức tạp sang ASCII. MIME được mô tả trong các RFC 2045-2049.
Các lệnh SMTP thường sử dụng:
HELO - Sử dụng để định danh máy gửi với máy nhận. Lệnh này phải kèm với tên máy tính của máy gửi. Trong nghi thức mở rộng (ESMTP), lệnh EHLO thay cho lệnh này. MAIL - Khởi tạo một phiên gửi mail. Đối số bao gồm trường “FROM” và địa chỉ email của người gửi. RCPT - Định danh người nhận thông điệp. Đi kèm với “TO” và địa chỉ email người nhận. DATA - Thông báo bắt đầu gửi dữ liệu thực sự của mail (phần thân của message). Dữ liệu kết thúc bằng một dòng trống và một dấu chấm (.). RSET - Hủy (reset) phiên gửi mail hiện hành. VRFY - Sử dụng để xác nhận một người nhận mail. NOOP - Viết tắt của “no operation”, lệnh này không làm gì cả. QUIT - Đóng kết nối SEND - Báo cho host nhận biết là message phải được gửi đến một terminal khác. HELP - Yêu cầu thông tin trợ giúp từ host nhận.
Ví dụ một phiên giao dịch SMTP:
220 ntbooks-pro Microsoft ESMTP MAIL Service, Version: 6.0.2505.1 ready at Mon, 8 Jul 2002 17:44:12 -0700 HELO 250 ntbooks-pro Hello [192.168.0.1] MAIL FROM : user1@mydomain.com 250 2.1.0 user1@mydomain.com....Sender OK RCPT TO : user2@mydomain.com 250 2.1.5 user2@mydomain.com DATA 354 Start mail input; end with . mail test ha ha ha
. 250 2.6.0 Queued mail for delivery QUIT 221 2.0.0 ntbooks-pro Service closing transmission channel
Nội dung mail nhận được có dạng như sau:
Received: from ([192.168.0.1]) by ntbooks-pro with Microsoft SMTPSVC(6.0.2505.1); Mon, 8 Jul 2002 17:46:21 -0700 From: user1@mydomain.com Bcc: Return-Path: user1@mydomain.com Message-ID: X-OriginalArrivalTime: 09 Jul 2002 00:46:50.0836 (UTC) FILETIME=[1CDAC940:01C226E2] Date: 8 Jul 2002 17:46:50 -0700